Tả là bệnh lý nhiễm trùng đường tiêu hóa cấp tính do vi khuẩn tả gây ra. Người bệnh có biểu hiện đặc trưng bao gồm đau bụng, nôn mửa và tiêu chảy ồ ạt đưa đến biến chứng mất nước nặng nề và suy kiệt. Vi khuẩn tả hay còn gọi là phẩy khuẩn tả, có tên khoa học là vi khuẩn tả Vibrio Cholerae, là tác nhân gây bệnh trực tiếp tồn tại trong phân người và động vật, lây lan theo đường tiêu hóa. Lịch sử thế giới đã ghi nhận 7 vụ đại dịch tả xảy ra trên nhiều châu lục và cướp đi sinh mạng của hàng triệu người.
1. Tổng quan về vi khuẩn tả
Vi khuẩn tả có tên khoa học là Vibrio Cholerae. Vi khuẩn tả có hình dạng dài như cái que, đầu hơi cong trông giống dấu phẩy nên còn được gọi là phẩy khuẩn tả. Chúng có vỏ bao bọc với lông ở một đầu để di chuyển. Vi khuẩn tả Vibrio Cholerae được chia thành nhiều loại khác nhau tùy thuộc vào kháng nguyên của chúng, bao gồm:
- Vibrio cholerae O1: đây là nhóm vi khuẩn tả có khả năng sản xuất ra độc tố đường ruột và gây nên bệnh dịch tả.
- Vibrio cholerae O139: chúng gây bệnh tả nhờ vào độc tố ruột và kháng nguyên điều hòa độc tố TCP.
- Vibrio cholerae không phải O1 và không phải O139: là những vi khuẩn thuộc nhóm huyết thanh từ O2 đến O138. Những vi khuẩn thuộc nhóm này không có khả năng gây bệnh dịch tả mặc dù chúng vẫn có khả năng gây viêm đường ruột cấp tính.
Vi khuẩn tả là vi khuẩn thuộc nhóm Gram âm, hiếu khí và không sinh nha bào. Môi trường nuôi cấy lý tưởng là những môi trường thường có độ pH kiềm như thạch TCBS có pH 8,6, TTGA với pH 8,5. Vi khuẩn tả có thể được tìm thấy ở phân người, phân động vật và môi trường xung quanh. Sống trong môi trường nước, phẩy khuẩn tả có thể tồn tại được vài ngày. Chúng bị tiêu diệt bởi nhiệt độ cao, ánh nắng mặt trời và các chất tẩy rửa thông thường như cloramin B, vôi, cresyl.
2. Cơ chế gây bệnh của vi khuẩn tả
Vi khuẩn tả gây bệnh ở người bằng cách xâm nhập qua hệ tiêu hóa. Vi khuẩn tả có trong phân hoặc môi trường xung quanh, ao hồ xuất hiện ở thực phẩm nhiễm bẩn và được tiêu hóa ở con người. Dịch tiêu hóa ở dạ dày có tính axit là hàng rào bảo vệ cơ thể đầu tiên trước vi khuẩn tả. Nếu vượt qua được dạ dày, vi khuẩn tả sẽ xuống được ruột non là nơi có môi trường pH kiềm thuận lợi cho sự sinh sôi và phát triển của chúng. Nhờ vào các kháng nguyên bám dính, vi khuẩn tả sống lâu được tại ruột non và sản xuất ra nhiều độc tố để gây bệnh. Khi gắn kết vào các tế bào biểu mô đường ruột, vi khuẩn tả làm thay đổi tính chất màng tế bào, đưa đến các rối loạn cân bằng nước và điện giải trong lòng ruột, hậu quả là tình trạng tiêu chảy cấp tính. Đây cũng chính là cơ chế gây nên cái chết của những người mắc bệnh tả nếu không được điều trị, tình trạng mất nước và rối loạn điện giải sẽ vắt kiệt sức người bệnh và gây nên nhiều biến chứng lên các cơ quan khác trong cơ thể như tim mạch và thần kinh. Một điều đáng lưu ý là, vi khuẩn tả và độc tố của nó không gây tổn thương lên bề mặt của các lớp tế bào biểu mô mặc dù vẫn gây ra các biểu hiện đau bụng và tiêu chảy ở người bệnh. Vì thế phương pháp bù dịch bằng đường uống trong bối cảnh tiêu chảy cấp mất nước như bệnh tả là hoàn toàn hợp lý. Dung dịch bù nước và điện giải oresol là sự lựa chọn phổ biến trên lâm sàng. Lượng glucose và các ion muối khoáng được sắp xếp với một tỷ lệ phù hợp có tác dụng tăng tái hấp thu ion natri trở lại đường ruột, thiết lập lại cân bằng điện giải.
Vi khuẩn tả sau khi xâm nhập vào cơ thể người có khả năng gây ra bệnh tả. Đây là bệnh nhiễm trùng cấp tính tại đường tiêu hóa, có khả năng lây lan mạnh qua đường tiêu hóa tạo thành dịch tả. Người bị nhiễm vi khuẩn sẽ biểu hiện các triệu chứng trên lâm sàng sau khoảng 2 đến 5 ngày. Dấu hiệu điển hình của một ca bệnh tả là tiêu chảy cấp phân nước ồ ạt màu trắng như nước vo gạo kèm đau bụng và nôn mửa nhiều. Người bệnh rơi vào trạng thái mất nước và rối loạn điện giải nhanh chóng, toàn thân suy kiệt nặng. Tỷ lệ tử vong của bệnh tả rất cao nếu không được điều trị kịp thời, trên 50%.
3. Xét nghiệm chẩn đoán vi khuẩn tả gây bệnh
Vi khuẩn tả được phát hiện trong chất thải của bệnh nhân. Xét nghiệm soi tươi phân là phương pháp phát hiện vi khuẩn tả trực tiếp. Người bệnh được yêu cầu lấy một mẫu phân, tốt nhất là trước khi được điều trị. Mẫu phân cần được tiến hành xét nghiệm trong vòng 2 giờ sau đó. Vi khuẩn tả được nhận diện dưới kính hiển vi quang học với hình ảnh phẩy khuẩn, di động nhanh nhờ lông đuôi ở một đầu. Tuy nhiên soi tươi phân tìm vi khuẩn tả có tỷ lệ phát hiện bệnh thấp. Xét nghiệm nuôi cấy phân để phân lập vi khuẩn cũng được sử dụng trong chẩn đoán bệnh tả. Bệnh phẩm là phân người được cấy vào các môi trường dinh dưỡng chọn lọc, quan sát đặc điểm các khúm vi khuẩn mọc sau một thời gian. Kết hợp thực hiện các phản ứng ngưng kết tìm kiếm kháng huyết thanh O1, O139 để làm tăng thêm tính chính xác và đặc hiệu của xét nghiệm. Bên cạnh đó, xét nghiệm huyết thanh học cũng được ứng dụng trong theo dõi và quản lý các vùng lưu hành bệnh tả. Với khả năng phát hiện được các kháng thể kháng lại vi khuẩn tả, phương pháp huyết thanh học được xem như một phương pháp phát hiện sự tồn tại của vi khuẩn tả một cách gián tiếp và không được dùng để chẩn đoán một ca mắc bệnh tả. Bệnh nhân mắc bệnh tả sau khi khỏi bệnh vẫn có thể tìm thấy kháng thể kháng vi khuẩn tả trong máu sau một thời gian.